Là quần thể di tích tâm linh tại làng cổ Bát Tràng, đền thờ mẫu của làng cũng là nơi thờ tự người con gái của dòng họ Trần Đồng Tâm, người con gái thuộc đời thứ 9 của dòng họ lớn trong số 23 dòng họ đã có công gây dựng nên làng gốm sứ Bát Tràng.
Đền thờ Mẫu Thiên tiên Quế Hoa công chúa tại làng cổ Bát Tràng
Đây cũng là lý do giải thích cho việc Mẫu được thờ ở cạnh nhà thờ họ Trần Đồng Tâm. Theo một số tài liệu ghi chép lại cùng lời kể của bác Khuông, một người con dâu của dòng họ Trần Đồng Tâm, hiện đang làm công việc hương nhang cho gia tộc và cho đền thờ Mẫu Thiên Tiên Quế Hoa công chúa thì thần tích về Ngài tại làng được bắt đầu từ khi Ngài hóa. Chuyện kể rằng:
"Mẫu bản hương tín nữ Quế Hoa Công chúa là công chúa Trần Mỹ Tín, tên húy là Phê, là con gái đời thứ 9 của họ Trần Đông Tâm Bát Tràng. Bà sinh năm Mậu Thìn (khoảng 1568) và mất ngày 24 tháng 9 năm ất Dậu (1585) tròn 18 tuổi. Mộ táng tại vườn chùa Tiêu Giao - Đông Cao (nay là thôn Giang Cao - Bát Tràng).
Đường vào đền Mẫu bên bờ sông Hồng thơ mộng
Bà sinh ra trong một gia đình nội ngoại đều có danh giá trong làng. Cha là Phúc Gia, hiệu là Pháp Duệ Thuyền Sư, lại có tên hiệu khác là Pháp Giai Tiên sinh, tục gọi là ông thầy Bồi có chân trong Phủ hiệu tiên sinh. Do học được nhiều phép hay, cứu giúp người nên được bổ làm Tế chân đường xứ (công tác y tế tỉnh). Mẹ bà tên húy là Nha, hiệu là Từ Huy, con gái cả của Đặc tiến phụ quốc, Thượng tướng quân, Đô chỉ huy xứ, kiêm chức Trung úy sở Chuẩn kích - vệ thần Tách trong Ty Điện Tiền triều Lê, tước Văn Lễ Bá, là thủy tổ họ Trần Đông Cục, Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội.
Quang cảnh sân đền trên bến dưới thuyền vào một buổi sáng mùa xuân năm 2019
Khi sinh ra, bà có khuôn mặt khôi ngô, lớn lên bà không ăn cơm gạo tẻ bao giờ, tính tình không hay trò chuyện với ai. Năm 12 tuổi, có nhiều người đến dạm hỏi, nhưng hễ có người đến dạm hỏi thì bà lại sinh bệnh. Đến giờ Ngọ ngày 24 tháng 9 năm ất Dậu (1585), bà tắm gội sạch sẽ vào quỳ lạy cha mẹ và thưa rằng: "Con là con gái Đức Ngọc Hoàng trên Thiên Đình, xuống đầu thai làm con cha mẹ 18 năm, nay không ở lại hầu cha mẹ được nữa. Con xem cha mẹ có nhiều phép lạ cứu người thì sau này thế nào cũng được hưởng phúc". Bà nói vậy đến giờ Tuất rồi mất.
Sau khi bà mất, đêm đêm thường xuất hiện, người trong làng thấy vậy bèn lập đền thờ và cầu xin điều gì đều linh ứng, các nơi xa gần đến xin lễ rất đông và tôn bà là Quế Hoa công chúa.
Cổng đền thờ Mẫu
Có một giai thoại kể rằng, ông nghè Vũ Văn Tuấn, đỗ tiến sĩ khoa Quí Mão (1843), được bổ nhiệm chức Hàn Lâm Viện Biện Tu, Hàm Thị Độc, đổi làm Tri phủ Hà Trung, sau được điều về kinh nhận chức Thị Giảng và được cử làm phó sứ, sau là chánh sứ sang nhà Thanh. Trước khi đi, ông đến đền Mẫu bản hương Mỹ Tín Thiên Tiên Quế Hoa Công chúa cầu xin mọi điều đều được bà linh ứng.
Sau khi trở về, để tỏ lòng biết ơn Mẫu, quan nghè Tuấn đã sửa sang lại đền miếu thờ Bà được khang trang to đẹp, cung tiến nhiều đồ thờ cúng. Theo các cụ trong làng thì chính bức hoành phi "Bạch thổ danh sơn" hiện còn trong đền là do chính tay ông viết. Trải qua các triều đại từ Lê - Tây Sơn đến Nguyễn, bà đều được phong sắc là Mỹ Tín Thiên Tiên Quế Hoa Công chúa cùng nhiều mỹ tự khác.
Bác Khuông, một người con dâu của dòng họ Trần Đồng Tâm đồng thời cũng là người hương nhang cho nhà thờ họ và đền Mẫu
Mẫu Quế Hoa công chúa Trần Mỹ Tín- một người con của quê hương Bát Tràng đã từng phù trợ cho cuộc sống tinh thần của nhân dân địa phương được bình yên, giúp nước yên dân. Công lao, ân đức của bà đã được các triều đại phong kiến ghi nhận qua các đạo sắc phong như:
"Sắc cho làng Bát Tràng, tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Về việc phụng sự tôn thần là Mỹ Tín Thiên Tiên Quế Hoa công chúa tôn thần Hộ quốc tý dân. Linh ứng của thần trong việc giúp nước, thương dân tới nay vẫn rõ ràng. Nhân tiết Tứ tuần Đại khánh của Trẫm nên gia ân ban chiếu cho lễ đăng trật được long trọng.
Nay phong thần là: “Trang huy dực bảo trung hưng thượng đẳng thần. Chuẩn cho dân phụng thờ, thần hãy phù trợ cho dân được lành".
Tồn tại đến ngày nay, di tích đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa, đặc biệt là năm 1958, do nhu cầu làm công trình thủy nông Bắc Hưng Hải, ngôi miếu thờ Mẫu bị dỡ bỏ chuyển vào sáp nhập hợp tự với nhà thờ họ Trần Đồng Tâm.
Dị Thảo (sưu tầm và thực hiện)